BÀI THU HOẠCH CẢM TÌNH ĐẢNG 2022

CÂU 1: Phân tích hoàn cảnh ra đời và vai trò của lãnh tụ NAQ đối với sự thành lập ĐCSVN .

 Hoàn cảnh ra đời và vai trò của NAQ đối với sự thành lập ĐCSVN

           Cuối thế kỷ XIX, sau khi bình định xong Việt Nam, thực dân Pháp bắt tay thực thi các chính sách thực dân hà khắc, biến nước ta từ một nước phong kiến độc lập trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.

           Sự thống trị tàn bạo của thực dân Pháp đã làm cho mâu thuẫn dân tộc diễn ra hết sức gay gắt, hàng loạt phong trào yêu nước theo các khuynh hướng khác nhau liên tiếp nổ ra nhằm giải quyết mâu thuẫn chủ yếu đó. Tiêu biểu là phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng; phong trào Đông Du của Phan Bội Châu; phong trào cải cách của Phan Chu Trinh, khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo...Các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tuy diễn ra quyết liệt, song cuối cùng đều bị thất bại, vì thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn, thiếu một tổ chức lãnh đạo có khả năng tập hợp sức mạnh của toàn dân tộc. 

 

           Trong bối cảnh đó, tháng 6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc ra đi tìm con đường cứu nước giải phóng dân tộc. Năm 1920 Nguyễn Tất Thành- Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác- Lê nin; đây không chỉ là bước ngoặt đối với cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, mà còn là bước ngoặt của cách mạng Việt Nam. Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin đã soi rọi cho Nguyễn Ái Quốc: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc thì trước hết phải có “Đảng cách mệnh” để “trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Từ nhận thức đó Nguyễn Ái Quốc ra sức chuẩn bị mọi mặt cho việc thành lập một chính đảng vô sản ở Việt Nam, Người từng bước truyền bá có hệ thống chủ nghĩa Mác-Lê nin vào trong nước, đưa phong trào công nhân chuyển dần từ trình độ tự phát lên tự giác; đưa phong trào yêu nước chuyển dần sang lập trường cộng sản. 

Tháng 3-1929, Chi bộ Cộng sản đầu tiên được thành lập ở số nhà 5D, Hàm Long, Hà Nội, gồm có Trần Văn Cung, Trịnh Đình Cửu, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Văn Tuân và Dương Hạc Đính. 

           Ngày 1-5-1929, tại Đại hội toàn quốc của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Hương Cảng, đoàn đại biểu Bắc Kỳ đưa ra đề nghị thành lập Đảng Cộng sản. Đề nghị dó không được chấp nhận, trở về nước, ngày 17-6-1929, những đảng viên trong Chi bộ Cộng sản 5D Hàm Long đã tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Ngày 25-7-1929 An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ. Tháng 9-1929 Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ. 

           Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên bố thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam. Song sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một Đảng thống nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử: thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.

           Từ ngày 03 đến 07-02-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản họp tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Tham gia Hội nghị có các đồng chí Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh (đại biểu DDCSD); Nguyễn Thiệu, Châu Văn Liêm (đại biểu (ANCSĐ). Đại biểu ĐDCSLĐ không đến kịp. Hội nghị nhất trí thành lập đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng. Ngày 3 tháng 2 năm 1930 trở thành Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

 

 Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là Đại hội thành lập Đảng. Đảng được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lê nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đó là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm. Trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do đồng chí Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị thành lập Đảng thông qua đã xác định cách mạng Việt Nam phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. 

           Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta

 


CÂU 2 : Phân tích những đặc trưng cơ bản của mô hình CNXH mà nhân dân ta xây dựng trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ( bổ sung, phát triển năm 2011 )

8 đặc trưng CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng

 Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) của Đảng, mô hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng đã được phác họa với sáu đặc trưng.


Đại hội lần thứ X (2006) của Đảng đã bổ sung, phát triển, làm cho mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam toàn diện hơn, gồm tám đặc trưng. Trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển 2011) Đảng ta tiếp tục xác định tám đặc trưng trên cơ sở kết hợp, bổ sung, phát triển những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội trong hai Văn kiện nêu trên.

Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng được nêu trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) là thành quả của công cuộc đổi mới, trước hết là thành quả của đổi mới nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Đó là thành quả của sự kết hợp hài hòa giữa “cái phổ biến” và “cái đặc thù,” cái chung và cái riêng để tạo nên một mô hình: chủ nghĩa xã hội Việt Nam .

Công cuộc đổi mới đất nước đã và đang thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng đã thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội Việt Nam.

- Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh

Đây là đặc trưng tổng quát nhất chi phối các đặc trưng khác, bởi nó thể hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ở nước ta, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội phải được biểu hiện cụ thể thiết thực, trên cơ sở kế thừa quan điểm Marx-Lenin về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, đồng thời vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh…là công bằng, hợp lý, mọi người đều được hưởng quyền tự do, dân chủ, được sống cuộc đời hạnh phúc…

Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng phải hướng tới việc hiện thực hóa đầy đủ, đồng bộ hệ mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh. Tư tưởng xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đối với dân tộc Việt Nam, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thật sự. Đây là khát vọng tha thiết của toàn thể nhân dân Việt Nam sau khi đất nước giành được độc lập và thống nhất Tổ quốc.

- Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ

Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện ở bản chất ưu việt chính trị của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế thừa giá trị quan điểm của chủ nghĩa Marx-Lenin sự nghiệp cách mạng là của quần chúng; kế thừa những giá trị trong tư tưởng truyền thống của dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: dân chủ tức là dân là chủ, dân làm chủ.

Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong đặc trưng vừa nêu còn được thể hiện trong nhận thức của Đảng ta về việc từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn liền với việc bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân (nhân dân là chủ thể của mọi quyền lực).

Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã tiếp tục khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mọi cấp, trên tất cả các lĩnh vực thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân bầu ra và các hình thức dân chủ trực tiếp…”.

- Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.

Đây là đặc trưng thể hiện tính ưu việt trên lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng so với các chế độ xã hội khác.

Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) tiếp tục khẳng định: Những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khi bàn về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế.

Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.

Quan điểm này hoàn toàn nhất quán với đặc trưng trong quan hệ sản xuất của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng là xác lập dần từng bước chế độ công hữu. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu là một trong những yếu tố đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế.

- Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

Tính ưu việt về tiến tiến của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện khái quát, nhân văn của văn hóa nhân loại; ở việc giữ gìn bản sắc dân tộc (những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam: chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, truyền thống đoàn kết và nhân ái, ý thức về độc lập, tự do, tự cường dân tộc...).

Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi vừa phải tiếp thu những giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa phải kế thừa, phát triển bản sắc văn hóa của các tộc người Việt Nam, xây dựng một nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Sự kết hợp hài hòa những giá trị tiên tiến với những giá trị mang đậm bản sắc dân tộc thể hiện tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng trên lĩnh vực văn hóa, làm cho văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.

- Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.

Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ được thể hiện trong đặc trưng tổng quát dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mà còn được thể hiện qua đặc trưng về con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Về phương diện con người, chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo: tất cả vì con người, cho con người và phát triển con người toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa. Để có con người xã hội chủ nghĩa phải xác định và hiện thực hóa hệ giá trị phản ánh nhu cầu chính đáng của con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.

Vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã xác định hệ giá trị phản ánh nhu cầu, nguyện vọng thiết thực của con người Việt Nam hiện nay là: có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội thể hiện trong đặc trưng này là quan điểm nhân văn, vì con người, chăm lo xây dựng con người, phát triển toàn diện con người (đức, trí, thể, mỹ) của Đảng và Nhà nước ta.

- Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.

Đặc trưng này thể hiện tính ưu việt trong chính sách dân tộc, giải quyết đúng các quan hệ dân tộc (theo nghĩa hẹp là quan hệ giữa các tộc người) trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam.

Thực hiện 25 năm đổi mới đất nước đã và đang chứng minh tính ưu việt trong chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, chứng minh tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong giải quyết các quan hệ dân tộc ở Việt Nam. Nhờ đó đã và đang phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, tính đồng thuận trong cộng đồng 54 dân tộc anh em, chống lại âm mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch.

- Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện trong tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Tính ưu việt của một xã hội do nhân dân làm chủ gắn bó mật thiết với tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã chỉ rõ tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang hướng tới xây dựng. Đó là: Nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lộng quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân…

- Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.

Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ thể hiện tính ưu việt trong các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà còn thể hiện trong quan hệ đối ngoại, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.

Việt Nam luôn luôn khẳng định quan hệ hữu nghị và hợp tác giữ nhân dân ta và nhân dân các nước trên thế giới. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế…Đảng và Nhà nước ta chủ trương hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.

Việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tham gia tích cực vào các tổ chức, diễn đàn quốc tế và khu vực đã chứng minh một cách sinh động tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng, thể hiện trong đặc trưng về quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.../.

 

CÂU 3: Từ thực tiễn phong phú của CM VIỆT NAM, đảng ta đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn, A/C phân tích 5 bài học đó.

NHỮNG BÀI HỌC LỚN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG

 

Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện đã lãnh đạo và đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam trong suốt 90 năm qua, Đảng ta đã tích luỹ và đúc rút được nhiều bài học kinh nghiệm lớn: Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; Kết hợp nội lực với ngoại lực, sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại; Sử dụng phương pháp cách mạng phù hợp; Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng.

            Thứ nhất, bài học về nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

            Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nội dung chủ đạo, xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh, là quan điểm nhất quán của Đảng, là vấn đề có tính chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng từ khi thành lập Đảng đến nay, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã được thực hiện với nội dung, hình thức, bước đi phù hợp với đặc điểm mỗi thời kỳ cách mạng, khơi dậy, phát huy sức mạnh của dân tộc và thời đại, có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi to lớn của dân tộc Việt Nam.

            Trong giai đoạn cách mạng 1930 – 1945, độc lập dân tộc là nhiệm vụ trọng tâm trước hết, đấu tranh giành độc lập dân tộc là nội dung chủ đạo, được tiến hành theo lập trường của giai cấp vô sản, chủ nghĩa xã hội chưa được đặt ra trực tiếp mà là phương hướng tiến lên. Và để đạt được mục tiêu chủ nghĩa xã hội, trước tiên phải giành độc lập dân tộc. Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu chính là quan điểm đúng đắn, sáng tạo, là yếu tố xuyên suốt và có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng nước ta trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền và đấu tranh giải phóng dân tộc nói chung.

            Trong giai đoạn vừa kháng chiến, vừa kiến quốc 1945 – 1954, Đảng ta xác định chiến lược của cách mạng là bảo vệ độc lập dân tộc với tinh thần “Tổ quốc trên hết”, “Dân tộc trên hết”. Đối với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng chủ trương tiến hành từng bước, sát với tiến trình thực hiện nhiệm vụ chống đế quốc và phục vụ chống đế quốc. Đảng lãnh đạo nhân dân nhanh chóng xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng, chống giặc đói, giặc dốt, không ngừng nâng cao nội lực cách mạng, là cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ chế độ, bảo vệ nền độc lập non trẻ, chuẩn bị kháng chiến.

            Trong thời kỳ 1954 – 1975, Đảng chủ trương tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng là cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam.

            Năm 1975, sau nhiều thập kỷ đấu tranh gian khổ, dân tộc Việt Nam đã giành lại trọn vẹn nền độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, mở ra thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc, thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh mới, những tiềm năng, lợi thế của hai miền đất nước được huy động, tập trung cho sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhưng cũng không ít nguy cơ ảnh hưởng đến nền độc lập của dân tộc, nguy cơ xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Do vậy, Đảng ta xác định phải thực hiện song hành độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong đó, độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc là điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội, tăng cường sức mạnh của chủ nghĩa xã hội để củng cố độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.

            Như vậy, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội luôn được Đảng ta xác định là nhiệm vụ quan trọng trong mọi giai đoạn cách mạng. Trong mỗi giai đoạn, tùy vào đặc điểm, tình hình, Đảng ta có thể chủ trương tập trung thực hiện nhiệm vụ độc lập dân tộc hoặc chủ nghĩa xã hội hoặc song hành cả hai.

            Hai là, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong đấu tranh giành độc lập, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

            Thành công nổi bật của Đảng Cộng sản Việt Nam là đề ra Cương lĩnh, đường lối chính trị đúng đắn vì lợi ích của đất nước và dân tộc. Trên cơ sở đường lối đúng đắn mà tập hợp, đoàn kết lực lượng của toàn dân tộc phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đại đoàn kết là nguồn sức mạnh giúp dân tộc Việt Nam vượt qua những khó khăn, thử thách để dựng nước và giữ nước. Đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam xuất phát từ nhận thức ngoài lợi ích của giai cấp, dân tộc và nhân dân, Đảng không có mục đích nào khác. Đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên nền tảng vững chắc là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, đồng thời đoàn kết rộng rãi các giai cấp, tầng lớp khác, đoàn kết 54 dân tộc trên đất nước Việt Nam, đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết với cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

            Đại đoàn kết dân tộc dựa trên cơ sở lấy mục tiêu chung làm điểm tương đồng, đồng thời bảo đảm lợi ích riêng của mỗi giai cấp, tầng lớp, bộ phận, cá nhân không trái với lợi ích chung của dân tộc, đất nước. Đảng chú trọng xây dựng các hình thức tổ chức Mặt trận dân tộc thống nhất để tập hợp đoàn kết rộng rãi mọi thành phần, lực lượng trong dân tộc, xã hội, đa dạng hóa các hình thức tổ chức tập hợp quần chúng, nêu cao vai trò các đoàn thể nhân dân, các hội quần chúng, nghề nghiệp. Đường lối và bài học đại đoàn kết dân tộc của Đảng là sự kế thừa và phát triển truyền thống đoàn kết hình thành trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, truyền thống gắn kết trong các hình thức cộng đồng, gia đình, dòng họ, làng xã đến cộng đồng dân tộc, quốc gia. Đại đoàn kết dân tộc cũng là nối tiếp truyền thống nhân văn, nhân ái, yêu thương đùm bọc lẫn nhau của dân tộc Việt Nam. Sự kết tinh các giá trị cao cả và sâu sắc đó của chiến lược đại đoàn kết dân tộc trở thành một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng và dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.

            Ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thấy động lực cách mạng từ quảng đại quần chúng và xác định nhiệm vụ tổ chức, tập hợp, đoàn kết, coi đây là chiến lược xuyên suốt, nhất quán, là cội nguồn sức mạnh trong mọi thời kỳ cách mạng. Ngay trong Sách lược vắn tắt của Đảng năm 1930 đã ghi rõ: Đảng phải thu phục đại bộ phận và làm cho giai cấp công nhân đóng vai trò lãnh đạo dân chúng, thu phục đại bộ phận và làm cho giai cấp nông dân, đồng thời phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt,… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Chính đại đoàn kết dân tộc là nguồn sức mạnh to lớn góp phần làm nên những thắng lợi vẻ vang của dân tộc, đưa đất nước đến bến bờ độc lập. Trong quá trình đổi mới, xây dựng đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” theo con đường chủ nghĩa xã hội, đoàn kết vẫn tiếp tục là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, luôn được nhấn mạnh qua các kỳ đại hội. Gần đây nhất, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII khẳng định: “Đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”1.

            Ba là, kết hợp nội lực với ngoại lực, sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.

            Cương lĩnh, đường lối của Đảng ngay từ đầu đã tổ chức và động viên sức mạnh của dân tộc, coi cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới, tranh thủ sự ủng hộ của cách mạng thế giới. Trong Đường cách mệnh (1927) lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nêu rõ: "Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã". Trong cao trào giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn thể quốc dân hãy đứng lên đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhờ phát huy sức mạnh, ý chí tự lực tự cường của cả dân tộc, nên đã chớp được thời cơ thuận lợi dẫn tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trong các cuộc kháng chiến lâu dài giành độc lập, thống nhất hoàn toàn, Đảng đã triệt để phát triển sức mạnh của dân tộc, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, đồng thời tranh thủ tối đa sự giúp đỡ, ủng hộ quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi.

            Công cuộc đổi mới diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào khủng hoảng và dẫn tới sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô. Điều đó đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, nâng cao bản lĩnh chính trị để đứng vững trước khó khăn, thử thách và kiên định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, động viên cao độ nội lực. Mặt khác, Đảng Cộng sản Việt Nam tăng cường củng cố sự đoàn kết các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, kiên định lập trường của chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đề ra và thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Đảng và Nhà nước cũng tranh thủ tối đa những vấn đề mới của thời đại: Hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hóa, thành quả của cách mạng khoa học, công nghệ, kinh nghiệm quản lí của các nước tiên tiến, những vấn đề về kinh tế tri thức… Nội lực và sức mạnh dân tộc bao giờ cũng có ý nghĩa quyết định, song sức mạnh đó được tăng cường khi có sự kết hợp đúng đắn với ngoại lực và sức mạnh của thời đại.

            Bốn là, sử dụng phương pháp cách mạng phù hợp với nhiệm vụ cách mạng và điều kiện cụ thể của Đảng Cộng sản Việt Nam.

            Phương pháp cách mạng vừa là khoa học lãnh đạo vừa là nghệ thuật lãnh đạo trong việc tổ chức, xây dựng các lực lượng và sử dụng các hình thức đấu tranh. Thực tế lịch sử phong trào cách mạng của thế giới và Việt Nam cho thấy phương pháp cách mạng là yếu tố quan trọng làm nên thắng lợi. Đồng chí Trường Chinh viết: “Lịch sử phát triển cách mạng thế giới đã cho thấy một phong trào nào đó có khi bế tắc, không có lối ra, thậm chí thất bại không phải vì không có mục tiêu và phương hướng rõ ràng, cũng không phải không tổ chức được lực lượng cách mạng, mà chủ yếu vì thiếu phương pháp cách mạng và hình thức đấu tranh thích hợp”2.

            Trong tiến trình lịch sử dân tộc, Đảng ta đã thực hiện phương pháp cách mạng đúng đắn và sáng tạo. Phương pháp cách mạng luôn được thực hiện đúng quy luật, thuận lòng dân và phù hợp thời đại. Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sử dụng đúng đắn, linh hoạt một số phương pháp cách mạng chủ yếu như sau: phương pháp sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng đấu tranh chống bạo lực phản cách mạng; phương pháp thắng từng bước; phương pháp phát huy sức mạnh tổng hợp. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta lựa chọn các phương pháp: Phát huy vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân; Tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có bước đi và hình thức thích hợp; Tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, thách thức trong xây dựng chủ nghĩa xã hội; Phát huy sức mạnh tổng hợp.

            Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

            Đến nay, tròn 90 năm Đảng được hợp nhất, thành một tổ chức Đảng lãnh đạo cách mạng. Ngày 3/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản họp ở bán đảo Cửu Long, thuộc Hồng Kông (Trung Quốc) đã quyết định thống nhất các tổ chức cộng sản ở nước ta thành một Đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là một bước ngoặt lịch sử trọng đại, chấm dứt cuộc khủng hoảng kéo dài về tổ chức và đường lối của cách mạng Việt Nam.

            Từ đó đến nay, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đạt được nhiều thắng lợi quan trọng. Đó là thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 xóa bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến, thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở ra kỉ nguyên mới của lịch sử dân tộc, kỉ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Là thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt chống đế quốc, thực dân giành độc lập hoàn toàn, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Là thắng lợi của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao vị thế của đất nước, làm sáng tỏ nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đến nay, Việt Nam đã trở thành một quốc gia có quy mô dân số gần 100 triệu người với mức thu nhập bình quân 2.800 USD/người; đã tham gia hầu hết các tổ chức quốc tế, trở thành một thành viên tích cực, có trách nhiệm trong các hoạt động của cộng đồng quốc tế.

             Quả thật, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 là một bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam và thực tiễn cách mạng 90 năm qua đã chứng minh sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

            Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, những bài học kinh nghiệm trên đây vẫn có ý nghĩa quan trọng quyết định sự thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhận thức, vận dụng đúng đắn những bài học kinh nghiệm này vào quá trình phát triển đất nước vẫn là yêu cầu hiện nay.

CÂU 5:  Vì sao xây dựng độn cơ vào đảng đúng đắn, được đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa quyết định đối với việc phấn đấu để trở thành Đảng Viên

Hướng phấn đấu trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam

 

Đảng Cộng sản Việt Nam là lá cờ đầu trong công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Được đứng trong hàng ngũ của Đảng là vinh dự và niềm tự hào của mỗi Đảng viên. Bản thân tôi càng nhận thức sâu sắc hơn nữa và quyết tâm phấn đấu để trở thành Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.

 

Thứ nhất: tôi xác định động cơ vào Đảng xuất phát từ nguyện vọng trong sáng và tự nguyện của bản thân. Đi theo con đường của Đảng là con đường lý tưởng của toàn dân tộc. Tôi không đến với Đảng vì những mục đích cá nhân vì dù ở vị trí nào tôi vẫn luôn làm việc và cố gắng trở thành một công dân có ích. Được đứng vào trong hàng ngũ của Đảng không chỉ là mục tiêu phấn đấu của tôi mà trong quá trình phấn đấu đó tôi được học hỏi, rèn luyện để trưởng thành và sống có trách nhiệm hơn với Đảng, Nhà nước và nhân dân.

 Đảng là tổ chức cách mạng có sứ mệnh cao cả là lãnh đạo nhân dân giành độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đứng trong một tập thể những người cùng chí hướng để xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh là niềm vinh hạnh to lớn của bản thân tôi. Tôi sẽ được đem hết trí tuệ, sức lực của mình để cống hiến, phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng, góp sức xây dựng đất nước ngày càng tốt đẹp và phát triển hơn.

Phấn đấu vào Đảng là để cống hiến nhiều hơn cho quốc gia dân tộc. Khi có động cơ đúng đắn thì sẽ dẫn đến hành động đúng đắn, nhận thức một cách toàn diện và sâu sắc lý tưởng của Đảng, là động lực hướng dẫn cho hành động.

Giữ vững phẩm chất của một đảng viên, không lùi bước trước những khó khăn, thách thức, trước cám dỗ của tiền bạc, chức quyền. Vào Đảng để phục vụ lý tưởng cách mạng của Đảng, hy sinh, phấn đấu đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn. Xây dựng được niềm tin của các tầng lớp nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Xác định động cơ vào Đảng, tôi sẵn sàng đối mặt với những khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, giữ vững niềm tin với Đảng, Nhà nước. Trở thành đảng viên không chỉ là vinh dự mà còn trách nhiệm, trách nhiệm đối với nhân dân, với Đảng, Nhà nước, trách nhiệm rèn luyện nâng cao kiên thức cho bản thân, chiếm lĩnh tri thức.

Thứ hai: Để trở thành một đảng viên tôi luôn cố gắng trau dổi bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng. Kiên định với mục tiêu, lý tưởng đã chọn, không giảm sút niềm tin, ý chí chiến đấu. Nỗ lực học tập, nâng cao hiểu biết và nhận thức về lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng. Tu dưỡng rèn luyện suốt đời để có được phẩm chất cách mạng trong sáng đi đôi với chống chủ nghĩa cá nhân.

Tôi nhận thức trong bối cảnh hiện nay, phải quyết tâm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành quốc gia giàu mạnh, văn minh.

Thể hiện bản lĩnh chính trị, nhận thức đúng đắn, không vì tiền bạc, giàu sang mà đánh mất đi phẩm chất đáng quý của người đảng viên. Đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, không mờ nhạt phương hướng chính trị, có thái độ, chính kiến rõ ràng.

Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là phủ định lợi ích của cá nhân mà là chống các biểu hiện ích kỷ, đặt lợi ích của cá nhân lên trên lợi ích của tập thể, trái với lợi ích chung của cộng đồng. Việc gì có lợi cho cách mạng, cho nhân dân thì hết sức làm, việc gì có hại thì hết sức tránh.

Trong quá trình xây dựng Đảng, mối quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh là tư cách, phẩm chất của người cán bộ cách mạng. Mỗi người cán bộ cách mạng phải thực sự thấm nhuần tư cách đạo đức cách mạng, chí công vô tư, liên chính trong thực hiện nhiệm vụ, công việc được giao.

Trở thành Đảng viên là giác ngộ lý tưởng cộng sản, trung thành với sự nghiệp độc lập dân tộc, tự do của nhân dân, xứng đáng với phẩm chất hàng đầu mà Người đặt ra cho mỗi đảng viên cộng sản.

Ghi nhớ lời căn dặn của Người, không được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc, cho lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, luôn đặt lợi ích chung của Đảng lên trên lợi ích cá nhân.

Thứ ba: Luôn rèn luyện, nâng cao năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Phấn đấu học tập thật tốt, khi còn ngồi trên ghế nhà trường thì nhiệm vụ học tập là nhiệm vụ trọng tâm. Tích cực tham gia học tập chính trị, tham gia các buổi sinh hoạt chính trị công dân sinh viên, lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng.

Trở thành người sản xuất, công tác, chiến đấu và học tập giỏi, không ngừng nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng và năng lực công tác, học tập văn hóa, kỹ thuật và nghiệp vụ.

Thứ tư: Gắn bó mật thiết và máu thịt với nhân dân, phát huy truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản việt Nam là tình cảm quân dân, tình cảm giữa người lãnh đạo với quần chúng nhân dân. Tích cực tham gia các hoạt động tập thể, công tác xã hội, các hoạt động ngoại khóa, tình nguyện, gắn bó với tập thể, với nhân dân.

Tôn trọng, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau giữa bạn bè, đồng nghiệp trong môi trường học tập, đơn vị công tác, với bà con làng xóm. Thể hiện rõ vai trò, khả năng lãnh đạo, tập hợp quần chúng, gương mẫu để xứng đáng trở thành đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Mở rộng các mối quan hệ xã hội, vận động gia đình, người thân tham gia vào các phong trào ở địa phương, làm cho quần chúng phấn khởi và tin tưởng và sự lãnh đạo của Đảng. Hết lòng phục vụ nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.

Hiểu rõ và nắm vững quan điểm giai cấp, đường lối của Đảng, dựa vào quần chúng nhân dân, giáo dục và phát động quần chúng thực hiện đúng chính sách pháp luật của Nhà nước. Khiêm tốn, gần gũi nhân dân, thật thà, ngay thẳng, luôn chăm lo đến đời sống của nhân dân.

Tăng cường tính kỷ luật, tự giác của bản thân, góp phần xây dựng sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng. Đoàn kết là sức mạnh, do đó phải đoàn kết, nhất trí để làm tròn nhiệm vụ mà Đảng giao cho. Giữ vững sự đoàn kết, nhất trí và kỷ luật của mỗi cá nhân đảng viên là then chốt của thành công.

Thứ năm: Tích cực tham gia vào công tác xây dựng Đảng, các cấp ủy Đảng từ Trung ương đến địa phương. Tôi nhận thức được rằng, bằng kiến thức, kinh nghiệm của bản thân mình cần tham gia vào việc góp ý kiến, xây dựng chi bộ, đảng bộ. Tích cực tham gia xây dựng cơ sở Đảng bằng những việc làm cụ thể như tham gia các phòng trào, hoạt động của đảng bộ, chi bộ với tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, chủ động, sáng tạo, góp phần đưa chủ trương của Đảng vào cuộc sống. Kịp thời phản ánh những tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân với Đảng. Kiên quyết đấu tranh giữa vững ổn định chính trị – xã hội ở cơ sở, đơn vị.

Tham gia đóng góp ý kiến, giới thiệu những đảng viên ưu tú, đủ tiêu chuẩn để tổ chức đảng xem xét, bầu vào cấp ủy, giới thiệu những quần chúng ưu tú đủ điểu kiện, tiêu chuẩn để tổ chức đảng xem xét kết nạp.

Thứ sáu: Không ngừng đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật, vận động nhân dân sống và học tập theo pháp luật góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh. Quyết tâm theo đuổi đến cùng con đường dẫn đến mục tiêu xã hội chủ nghĩa, tự nguyện dấn thân theo lý tưởng cách mạng.

Thứ bảy: Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tư tưởng mà Người để lại là vô giá. Học tập và làm theo tấm gương của người là nhiệm vụ rất quan trọng, đồng thời cũng là niềm vinh dự của mỗi đảng viên.

Tinh thần của Người là tinh thần yêu nước, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Người toàn tâm, toàn ý cho sự nghiệp thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Học tập tư tưởng của Người, tôi nhận thức sâu sắc và đầy đủ hơn những hy sinh to lớn của các thế hệ cha ông vì sự nghiệp thống nhất đất nước, trọn vẹn non sông. Phát huy truyền thống anh hùng dân tộc bất khuất và lương tâm, trách nhiệm của mỗi thế hệ người Việt Nam sau này.

Trung thành với Tổ quốc, với lý tưởng cách mạng của Đảng, có ý chí vươn lên, quyết tâm vượt qua nghèo nàn, lạc hậu. Đoàn kết trong Đảng, đấu tranh với mọi hành vi chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ Đảng với nhân dân.

Có tinh thần trách nhiệm đối với công việc, lương tâm nghề nghiệp trong sáng. Phát huy tình thần hiếu học, vận dụng những kiến thức khoa học kĩ thuật vào sản xuất và đời sống. Ngăn chặn những biểu hiện trì trệ, lười học tập, lười lao động.

Biết quý trọng công sức lao động của tập thể, của nhân dân. Phải liêm chính, không xa hoa, lãng phí, không chạy theo danh vọng, địa vị mà không màng đến lợi ích của nhân dân. Bảo vệ chân lý, bảo vệ lẽ phải, không bao che, giấu giếm khuyết điểm. Có thái độ lên án, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí.

Trở thành Đảng viên là trăn trở khi thấy nhân dân còn gặp nhiều khó khăn do đó phải biết chủ động lắng nghe, động viên, lãnh đạo nhân dân ra sức học tập, xây dựng, phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo. Có ý thức phê bình và tự phê bình, nghiêm khắc với bản thân, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị và lối sống.

Kế thừa và phát triển tư tưởng của Người trong việc nêu cao phẩm giá con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Giữ gìn chuẩn mực đạo đức, truyền thống dân tộc trong quần chúng nhân dân. Lao động, học tập, công tác với tinh thần hăng say, có chất lượng và hiệu quả cao.

Chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, chạy theo danh vọng, lạm dụng quyền hạn, giành giật lợi ích cho mình. Bảo vệ chân lý và quan điểm của Đảng, chân thành, khiêm tốn, nói đi đôi với làm. Không thờ ơ, lãnh đạm với những khó khăn của nhân dân. Không làm ẩu, bòn rút của công, loại bỏ những tiêu cực, bất chính, tham nhũng ra khỏi đời sống xã hội.

Mẫu mực về tinh thần dân chủ, tôn trọng nhân dân, gắn bó với người dân, phê phán những biểu hiện quan liêu, coi thường quần chúng nhân dân, vi phạm kỷ cương, kỷ luật của Đảng.

Tất cả vì nhân dân, dù bất cứ ở cương vị nào cũng phải gần dân, học dân, không xa rời nhân dân, chia sẻ, đồng cam cộng khổ với nhân dân, phát huy những ưu điểm, sửa chữa những sai lầm, yếu kém.

Mở rộng tình đoàn kết quốc tế, chống áp bức, bất công. Tích cực, chủ động hội nhập khu vực và quốc tế, hợp tác, cùng có lợi. Đa dạng hóa, đa phương hóa, có tinh thần hữu nghị, đoàn kết quốc tế. Phát huy tinh thần độc lập tự chủ, chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc.

 

Sưu tầm Chuyện Đời Thườngnh Đảng viên Đảng Cộng sản Việ